Kali diformat không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm

kali diformat trong nước

Kali diformat(PDF) là một loại muối liên hợp đã được sử dụng làm phụ gia thức ăn không kháng sinh để thúc đẩy tăng trưởng cho vật nuôi. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên các loài thủy sinh còn rất hạn chế, và hiệu quả của nó còn nhiều tranh cãi.

Một nghiên cứu trước đây trên cá hồi Đại Tây Dương cho thấy chế độ ăn có chứa bột cá được xử lý bằng 1,4v PDF đã cải thiện hiệu quả thức ăn và tốc độ tăng trưởng. Kết quả dựa trên quá trình nuôi vỗ của cá rô phi lai cũng chỉ ra rằng việc bổ sung 0,2% PDF vào chế độ ăn thử nghiệm đã làm tăng đáng kể tốc độ tăng trưởng và hiệu quả thức ăn, đồng thời giảm nhiễm khuẩn.

Ngược lại, một nghiên cứu trên cá rô phi lai giống cho thấy việc bổ sung PDF với tỷ lệ lên đến 1,2% trong chế độ ăn không cải thiện hiệu suất tăng trưởng, mặc dù ức chế đáng kể vi khuẩn đường ruột. Dựa trên thông tin hạn chế hiện có, hiệu quả của PDF đối với hiệu suất cá dường như khác nhau tùy thuộc vào loài, giai đoạn sống, mức độ bổ sung PDF, công thức thử nghiệm và điều kiện nuôi.

Thiết kế thử nghiệm

Chúng tôi đã tiến hành một thử nghiệm tăng trưởng tại Viện Hải dương học ở Hawaii, Hoa Kỳ, nhằm đánh giá tác động của PDF lên hiệu suất tăng trưởng và khả năng tiêu hóa của tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương nuôi trong hệ thống nước trong. Nghiên cứu này được tài trợ bởi Cục Nghiên cứu Nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ và thông qua thỏa thuận hợp tác với Đại học Alaska Fairbanks.

Tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương non (Tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei) được nuôi trong hệ thống nước sạch chảy trong nhà với độ mặn 31 ppt và nhiệt độ 25 độ C. Chúng được cho ăn sáu chế độ ăn thử nghiệm với 35% protein và 6% lipid chứa PDF ở mức 0, 0,3, 0,6, 1,2 hoặc 1,5%.

Với mỗi 100 g, chế độ ăn cơ bản được xây dựng bao gồm 30,0 g bột đậu nành, 15,0 g bột cá minh thái, 6,0 g bột mực, 2,0 g dầu cá menhaden, 2,0 g lecithin đậu nành, 33,8 g bột mì nguyên cám, 1,0 g crom oxit và 11,2 g các thành phần khác (bao gồm khoáng chất và vitamin). Đối với mỗi chế độ ăn, bốn bể 52 lít được thả với mật độ 12 con tôm/bể. Với trọng lượng ban đầu 0,84 g, tôm được cho ăn bằng tay bốn lần mỗi ngày cho đến khi cảm thấy no trong tám tuần.

Trong thử nghiệm khả năng tiêu hóa, 120 con tôm có trọng lượng cơ thể từ 9 đến 10 gram được nuôi trong mỗi bể 18.550 lít với ba bể/chế độ ăn. Oxit crom được sử dụng làm chất đánh dấu bên trong để đo hệ số tiêu hóa biểu kiến.

Kết quả

Tăng trọng hàng tuần của tôm dao động từ 0,6 đến 0,8 gram và có xu hướng tăng ở các nghiệm thức bổ sung chế độ ăn 1,2 và 1,5% PDF, nhưng không khác biệt đáng kể (P > 0,05) giữa các nghiệm thức. Tỷ lệ sống của tôm đạt 97% hoặc cao hơn trong thử nghiệm tăng trưởng.

Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) tương tự nhau đối với chế độ ăn có PDF 0,3 và 0,6 phần trăm và cả hai đều thấp hơn FCR đối với chế độ ăn có PDF 1,2 phần trăm (P < 0,05). Tuy nhiên, FCR đối với chế độ ăn đối chứng có PDF 1,2 và 1,5 phần trăm thì tương tự nhau (P > 0,05).

Tôm được cho ăn chế độ ăn 1,2% có khả năng tiêu hóa vật chất khô, protein và năng lượng thô thấp hơn (P < 0,05) so với tôm được cho ăn các chế độ ăn khác (Hình 2). Tuy nhiên, khả năng tiêu hóa lipid trong chế độ ăn của chúng không bị ảnh hưởng (P > 0,05) bởi mức PDF.

Quan điểm

Nghiên cứu này cho thấy việc bổ sung PDF với liều lượng lên đến 1,5% vào chế độ ăn không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm nuôi trong hệ thống nước trong. Quan sát này tương tự như kết quả nghiên cứu trước đây với cá rô phi lai giống, nhưng khác với kết quả nghiên cứu trên cá hồi Đại Tây Dương và cá rô phi lai nuôi thương phẩm.

Nghiên cứu này cho thấy ảnh hưởng của PDF trong chế độ ăn lên hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) và khả năng tiêu hóa phụ thuộc vào liều lượng. Có thể hệ số chuyển hóa thức ăn cao của chế độ ăn 1,2% PDF là do khả năng tiêu hóa protein, vật chất khô và năng lượng thô của chế độ ăn thấp. Thông tin về ảnh hưởng của PDF đến khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng ở các loài thủy sản còn rất hạn chế.

Kết quả của nghiên cứu này khác với kết quả của một báo cáo trước đây cho rằng việc bổ sung PDF vào bột cá trong thời gian bảo quản trước khi chế biến thức ăn làm tăng khả năng tiêu hóa protein. Hiệu quả khác nhau của PDF trong chế độ ăn được tìm thấy trong các nghiên cứu hiện tại và trước đây có thể là do các điều kiện khác nhau, chẳng hạn như loài thử nghiệm, hệ thống nuôi, công thức thức ăn hoặc các điều kiện thí nghiệm khác. Lý do chính xác cho sự khác biệt này vẫn chưa rõ ràng và cần được nghiên cứu thêm.

 


Thời gian đăng: 18-10-2021