Chất hấp dẫn có cường độ caoDMPTVàDMTlà chất hấp dẫn mới và hiệu quả đối với động vật thủy sinh. Trong nghiên cứu này, chất hấp dẫn có cường độ caoDMPTVàDMTđược thêm vào thức ăn cho cá chép để nghiên cứu tác dụng của hai chất dẫn dụ đối với việc cho cá chép ăn và thúc đẩy tăng trưởng. Kết quả cho thấy việc bổ sung chất dẫn dụ có nồng độ caoDMPTVàDMTvào thức ăn làm tăng đáng kể tần suất cắn của cá thí nghiệm và có tác dụng cho ăn đáng kể; Đồng thời, việc bổ sung các nồng độ khác nhau của chất dẫn dụ có cường độ caoDMPTVàDMTthức ăn làm tăng đáng kể tốc độ tăng trọng, tốc độ tăng trưởng đặc trưng và tỷ lệ sống của cá thí nghiệm, trong khi hệ số thức ăn giảm đáng kể. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằngDMPTcó tác dụng đáng kể hơn trong việc thu hút và thúc đẩy sự phát triển của cá chép so vớiDMT.
Chất dẫn dụ thức ăn thủy sản là một chất phụ gia không chứa dinh dưỡng. Việc bổ sung chất dẫn dụ vào thức ăn có thể thúc đẩy cá ăn hiệu quả, tăng lượng thức ăn tiêu thụ, giảm lượng thức ăn dư thừa trong nước và do đó giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước nuôi trồng thủy sản.DMPTVàDMTlà những hoạt chất hiện diện rộng rãi trong các sinh vật biển, đóng vai trò là chất cho methyl hiệu quả và chất điều hòa áp suất thẩm thấu quan trọng. Chúng cũng có tác dụng kích thích ăn uống và tăng trưởng đáng kể ở động vật thủy sinh.
Sau khi tiến hành các nghiên cứu có liên quan về các loài động vật thủy sinh như cá chép, cá hồng, cá vàng và tôm đốm, các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã phát hiện ra rằngDMPTVàDMTcó tác dụng hấp dẫn tốt đối với cá nước ngọt và cá biển, động vật giáp xác và động vật có vỏ. Bổ sung nồng độ thấp các chất hấp dẫn có cường độ caoDMPTVàDMTtrong thức ăn có thể thúc đẩy đáng kể việc ăn và tăng trưởng của nhiều loại cá nước ngọt và cá biển. Trong thí nghiệm này, chất dẫn dụ có nồng độ caoDMPTVàDMTđược thêm vào thức ăn cho cá chép để nghiên cứu tác dụng của chúng đối với việc cho cá chép ăn và thúc đẩy tăng trưởng, cung cấp dữ liệu tham khảo cho việc ứng dụng rộng rãi hai chất hấp dẫn mới này trong ngành thức ăn và nuôi trồng thủy sản.
1 Vật liệu và phương pháp
1.1 Vật liệu thí nghiệm và cá thí nghiệm
S. S' - Dimethylacetic acid thiazole (DMT), DMPT
Cá chép thí nghiệm được lấy từ một trại nuôi trồng thủy sản, có thân hình khỏe mạnh và các chỉ số kỹ thuật tốt. Trước khi thí nghiệm chính thức bắt đầu, cá thí nghiệm sẽ được nuôi tạm thời trong phòng thí nghiệm trong 7 ngày, trong thời gian đó, chúng sẽ được cho ăn thức ăn dành riêng cho cá chép do nhà máy thức ăn cung cấp.
1.2 Thức ăn thử nghiệm
1.2.1 Thức ăn thử nghiệm mồi: Nghiền nát thức ăn cá chép do nhà máy thức ăn cung cấp, thêm một lượng tinh bột A tương đương, trộn đều, sau đó trộn với một lượng nước cất vừa đủ để tạo thành viên dính 5g làm thức ăn cho nhóm đối chứng. Đồng thời, chuẩn bị thức ăn mồi bằng cách nghiền nát thức ăn cá chép, thêm một lượng tinh bột alpha tương đương, và thêm DMT và mồi.DMPTở hai nồng độ lần lượt là 0,5g/kg và 1g/kg. Trộn đều và trộn với một lượng nước cất thích hợp để tạo thành mỗi viên keo 5g.
1.2.2 Thức ăn thử nghiệm tăng trưởng:
Nghiền thức ăn cho cá chép (từ cùng nguồn như trên) thành bột, lọc qua rây 60 mesh, thêm một lượng tinh bột alpha bằng nhau, trộn đều, trộn với nước cất, ép từ rây thành hạt và phơi khô trong không khí để thu được thức ăn cho nhóm đối chứng để thử nghiệm tăng trưởng.DMTvà tinh thể DMPT được hòa tan trong nước cất để tạo thành dung dịch có nồng độ thích hợp, dùng để trộn đều thức ăn cho cá chép và tinh bột thành dạng hạt. Sau khi sấy khô, thu được thức ăn cho nhóm thí nghiệm, vớiDMTvà DMPT được thêm vào theo ba mức nồng độ lần lượt là 0,1g/kg, 0,2g/kg và 0,3g/kg.
1.3 Phương pháp thử nghiệm
1.3.1 Thử nghiệm mồi: Chọn 5 con cá chép thí nghiệm (trọng lượng trung bình 30g) làm cá thí nghiệm. Trước khi thử nghiệm, cho cá nhịn đói 24 giờ, sau đó thả cá vào bể kính (kích thước 40 x 30 x 25cm). Thức ăn mồi được cố định ở khoảng cách 5,0cm tính từ đáy bể bằng một sợi dây treo được buộc vào một thanh ngang. Cá cắn mồi và làm rung dây, tín hiệu này được truyền đến thanh ngang và được ghi lại bằng máy ghi hình bánh xe. Tần suất cắn mồi được tính toán dựa trên độ rung cực đại của 5 con cá cắn mồi trong vòng 2 phút. Thử nghiệm cho ăn đối với mỗi nhóm thức ăn được lặp lại ba lần, mỗi lần sử dụng một viên dính mồi mới chuẩn bị. Bằng cách tiến hành các thí nghiệm lặp lại để thu được tổng số lượng và tần suất trung bình của các lần mồi, hiệu quả cho ăn củaDMTvà DMPT trên cá chép có thể được đánh giá.
1.3.2 Thí nghiệm tăng trưởng sử dụng 8 bể kính (kích thước 55 × 45 × 50cm), với độ sâu nước 40cm, nhiệt độ nước tự nhiên và bơm hơi liên tục. Cá thí nghiệm được phân ngẫu nhiên và chia thành hai nhóm để thực hiện thí nghiệm. Nhóm đầu tiên bao gồm bốn bể cá, được đánh số X1 (nhóm đối chứng), X2 (0,1gDMT/kg thức ăn), X3 (0,2gDMT/kg thức ăn), X4 (0,3gDMT/kg thức ăn); Một nhóm khác gồm 4 bể cá, được đánh số Y1 (nhóm đối chứng), Y2 (0,10g DMPT/kg thức ăn), Y3 (0,2g DMPT/kg thức ăn), Y4 (0,30g DMPT/kg thức ăn). 20 con cá mỗi hộp, cho ăn 3 lần một ngày vào lúc 8:00, 13:00 và 17:00, với tỷ lệ cho ăn hàng ngày là 5-7% trọng lượng cơ thể. Thí nghiệm kéo dài trong 6 tuần. Vào đầu và cuối thí nghiệm, trọng lượng ướt của cá thử nghiệm được đo và tỷ lệ sống sót của từng nhóm được ghi lại.
2.1 Hiệu ứng nuôi dưỡng của DMPT vàDMTtrên cá chép
Hiệu ứng nuôi dưỡng của DMPT vàDMTtrên cá chép được phản ánh qua tần suất cắn câu của cá thí nghiệm trong suốt thí nghiệm 2 phút, như thể hiện trong Bảng 1. Thí nghiệm cho thấy sau khi bổ sung thức ăn DMPT và DMT vào bể cá, cá thí nghiệm nhanh chóng thể hiện hành vi kiếm ăn tích cực, trong khi khi sử dụng thức ăn nhóm đối chứng, phản ứng của cá thí nghiệm tương đối chậm. So với nhóm đối chứng, cá thí nghiệm có tần suất cắn câu tăng đáng kể. DMT và DMPT có tác dụng thu hút đáng kể đối với cá chép thí nghiệm.
Tỷ lệ tăng trọng, tỷ lệ tăng trưởng đặc trưng và tỷ lệ sống sót của cá chép được cho ăn các nồng độ DMPT khác nhau đều tăng đáng kể so với cá được cho ăn thức ăn đối chứng, trong khi hệ số thức ăn giảm đáng kể. Trong số đó, việc bổ sung DMPT vào T2, T3 và T4 đã làm tăng mức tăng trọng hàng ngày của ba nhóm lần lượt là 52,94%, 78,43% và 113,73% so với nhóm đối chứng. Tỷ lệ tăng trọng của T2, T3 và T4 tăng lần lượt là 60,44%, 73,85% và 98,49% và tỷ lệ tăng trưởng đặc trưng tăng lần lượt là 41,22%, 51,15% và 60,31%. Tỷ lệ sống sót tăng từ 90% lên 95% và hệ số thức ăn giảm lần lượt là 28,01%, 29,41% và 33,05%.
3. Kết luận
Trong thí nghiệm này, liệuDMThoặc DMPT được bổ sung, tần suất cho ăn, tốc độ tăng trưởng riêng và tăng trọng hàng ngày của cá thí nghiệm trong mỗi nhóm đều tăng đáng kể so với nhóm đối chứng, trong khi hệ số thức ăn giảm đáng kể. Và dù là DMT hay DMPT, tác dụng thúc đẩy tăng trưởng trở nên rõ rệt hơn khi tăng lượng bổ sung ở ba nồng độ 0,1g/kg, 0,2g/kg và 0,3g/kg. Đồng thời, đã tiến hành so sánh tác dụng cho ăn và thúc đẩy tăng trưởng của DMT và DMPT. Người ta thấy rằng ở cùng nồng độ cắt tóc, tần suất cho ăn, tốc độ tăng trọng và tốc độ tăng trưởng riêng của cá thí nghiệm trong nhóm thức ăn DMPT tăng đáng kể so với nhóm thức ăn DMT, trong khi hệ số thức ăn giảm đáng kể. Tương đối mà nói, DMPT có tác dụng thu hút và thúc đẩy tăng trưởng của cá chép đáng kể hơn so với DMT. Thí nghiệm này đã sử dụng DMPT và DMT được bổ sung vào thức ăn cho cá chép để khám phá tác dụng cho ăn và thúc đẩy tăng trưởng của chúng. Kết quả cho thấy DMPT và DMT có triển vọng ứng dụng rộng rãi như một thế hệ chất hấp dẫn động vật thủy sinh mới.
Thời gian đăng: 30-05-2025